Tám năm trước, hai thám tử Scott Miller và Mark Gayman thuộc Ủy ban Trọng tội của Phòng cảnh sát trưởng đã thẩm định và cho hòn lục bảo này làm bằng chứng cần được bảo vệ. Hai người đàn ông đó đều là cựu chiến binh lâu năm: với Miller là 30 năm, còn với Gayman là 28. Họ ăn mặc giống hệt như phiên bản Hollywood của chính mình, với cặp kính râm gài sau đầu, và những miếng huy hiệu treo lủng lẳng trên những sợi xích dài. Một trong số những thời khắc được cho là huy hoàng nhất trong sự nghiệp của Gayman là lần ông bắt gọn được vợ cũ của Joe Pesci, cô đã thuê một sát thủ với ý định giết hại người tình mới của mình hòng chiếm đoạt tài sản. Có một điều mà cả hai người bọn họ đều ghét, ấy là vụ án về viên ngọc lục bảo. Đó là một trong số những âm mưu khó giải mã nhất từ trước đến nay. Việc gỡ rối những bí ẩn và những lời dối trá ở đó, theo lời Miller, chẳng khác gì một “câu đố từ địa ngục” cả.
Các viên lục bảo vẫn thường khơi dậy rất nhiều những câu chuyện—đa số cũng khá mơ hồ. Trong rất nhiều những thời kỳ lịch sử, người ta đã thực sự tin rằng lục bảo có khả năng bảo vệ con người khỏi bệnh tả, sự bất tín, và các vong hồn của quỷ dữ, và rằng một viên lục bảo được đặt dưới lưỡi có thể khiến cho một người buộc phải nói ra sự thật. Hòn lục bảo nặng 340kg này thì khó có thể đặt vừa xuống dưới lưỡi được, và có vẻ như từ trước đến nay nó vẫn chưa chứng minh được khả năng tích cực nào cả.
Miller và Gayman đã bị cuốn theo quỹ đạo điên cuồng của nó vào ngày 8 tháng 10 năm 2008, khi một trung sĩ của họ đã chuyển lại một cuộc gọi. Một người đàn ông với giọng nói chát tai với cái tên Larry Biegler đã gọi cho cảnh sát tại Temple City, một thị trấn ngoại ô California nằm ngay phía đông nam Pasadena. Ông ta nhắn nhủ với sĩ quan đang trực rằng hòn lục bảo nặng “381kg” của mình (rất nhiều người đã bảo rằng hòn lục bảo nặng 381kg, nhưng thực tế thì không phải) đã bị trộm mất, và ông ta thì đã bị bắt cóc rồi được thả ra bởi mafia ở Brazil. Thế rồi hai vị thám tử nhanh chóng nhảy lên chiếc xe mà Miller vẫn thường gọi là “văn phòng di động” của mình (đó là một chiếc Chevy Blazer), lái 24 km tới Temple City, và dành cả ngày ở đồn cảnh sát địa phương để phân tích hồ sơ của hòn lục bảo. Vụ này “cũng khá thú vị,” Miller bảo với tôi, “ban đầu thì là thế.”
Một điều bạn cần phải biết, đấy là đá lục bảo là một loại đá cực kỳ phức tạp. Công thức hóa học của một viên lục bảo là (Be3Al2(SiO3)6). Để những viên ngọc xanh này được hình thành, người ta sẽ phải nung berili (beryllium) đến 400 độ C, dưới áp lực 7,5 tới 21,75 tấn trên mỗi inch vuông (khoảng 6,4cm vuông), được lên màu với crôm (chromium) hay vanadi (vanadium). Trên thực tế, berili chỉ tồn tại với một lượng rất nhỏ gần vỏ Trái đất, do đó việc này rất hiếm xảy ra. Và kể cả khi nó có xảy ra, thì các viên ngọc sản phẩm, hay thường được gọi là tinh thể beryl, sẽ không được đồng đều. Gần như tất cả các viên lục bảo đều có các vết nứt và các tạp chất, hay nói cách khác là phi thuần khiết. Trên thang độ cứng Mohs, lục bảo rơi vào khoảng điểm từ 7.5 đến 8 trên 10. Nếu bạn cắt theo vết nứt hay điểm chứa tạp chất của chúng, thì chúng sẽ vỡ tan.
Kim cương thì ngược lại. Chúng rất đơn giản: chỉ đơn thuần là cacbon. Công thức hóa học của một viên kim cương là C. Kim cương đạt điểm 10 trên thang Mohs. Thị trường kim cương cũng chỉ được điều khiển bởi một vài nhà buôn tên tuổi. Ngoài ra cũng có một bảng giá quốc tế hàng tuần, Bảng giá Kim cương Rapaport, để đặt giá trị dựa trên bốn tiêu chí: độ nặng tính bằng carat, độ trong, những đường cắt có hoàn hảo không, và màu sắc. Giá cả của kim cương cũng được bình ổn nhờ có các tổ chức kiểm soát giá—những người quyết định số lượng kim cương được bán ra thị trường. Trong khi đó, thị trường lục bảo lại bị thao túng bởi hàng trăm các nhà buôn nhỏ lẻ. Giá của chúng, nói một cách hào phóng, là rất dễ linh động. Một viên lục bảo sẽ chỉ mang một cái giá mà một người nào đó có thể trả được. Chấm hết. Cái ý nghĩ cho rằng kim cương là thứ lãng mạn hơn lục bảo quả là quá sức vô lý, chỉ là một mưu đồ marketing không hơn không kém. Kim cương là một sản phẩm cũng giống như vàng và dầu thô vậy: tiền nào ra của nấy, và bền vững với thời gian. Còn lục bảo thì giống như những chiếc thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Khi bạn mua một cái, bạn tin như đinh đóng cột rằng mình đã tìm thấy một kho báu bí mật và đã hớt được với một cái giá không thể tốt hơn. Thế rồi một vài tuần, một vài tháng hay một vài năm sau, sự thật mới đến khiến cho bạn ngã ngửa: bạn đã bị lừa. Giờ thì đến lúc bạn phải nắm chặt tay đứng dậy, đối mặt với cái tôi bị tổn thương sâu sắc của mình, và tìm cách lừa bán viên lục bảo này cho gã ngốc tiếp theo.
Thị trường đá quý luôn tỏ ra cực kỳ quỷ quyệt, nhất là đối với những thứ mà người ta gọi là mẫu vật lục bảo—những viên ngọc to và kỳ quặc, được định mệnh để rơi vào tay những kẻ tò mò và các bảo tàng lịch sử tự nhiên. Hòn ngọc trong hầm chứa của Phòng Cảnh sát trưởng được gọi là Hòn lục bảo Bahia, và nó là một mẫu vật hoàn hảo—to lớn, kỳ dị, và được hình thành bởi những viên ngọc chất lượng thấp đến mức, nếu những viên ngọc đó được đập ra thành những viên đá nhỏ hơn, thì các nhà ngọc học sẽ gọi chúng là “mấy viên lục bảo trang trí bể cá.”
Cũng cần phải nói luôn, là Hòn lục bảo Bahia không hề đẹp một chút nào. Nó là một khối đá kết, một con chimera của địa chất—một tập hợp các viên lục bảo to được gắn vào với nhau với các góc lệch trong một ma trận đá phiến đen. Nói ngắn gọn lại, thì đây chỉ là một mớ đá hỗn độn.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, bốn cuộc kiện tụng liên quan đến hòn lục bảo Bahia đã xảy ra liên tiếp. Mười bốn cá nhân cũng như tổ chức, cộng thêm cả quốc gia Brazil, đã tuyên bố rằng hòn lục bảo Bahia là của họ. Một căn nhà đã bị thiêu rụi. Ba người đã phải tuyên bố phá sản. Một người đàn ông tự nhận rằng mình đã bị bắt cóc và giữ làm con tin. Rất nhiều trong số những người có liên quan đã nói rằng hòn lục bảo đó là một hòn đá từ địa ngục, nhưng họ cũng không thể nào từ bỏ được nó. Như Brian Brazeal, một nhà nhân chủng học tại Trường Đại học Chico thuộc Bang California, đã viết trong một bài báo mang tựa đề Bái vật và Hòn đá: Một nền kinh tế của đạo đức giữa những nhà kiểm soát giá và những tên trộm, rằng “những viên lục bảo sẽ chiếm đoạt lấy cuộc sống của những người mộ đạo thiện tâm nhất và dẫn lối họ tới con đường của sự diệt vong.”
Bản thân tôi cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy của hòn lục bảo, và dành không biết bao nhiêu những đêm dài để nghiên cứu và báo cáo câu chuyện này, chỉ để cuối cùng cảm thấy nó khó hiểu hơn bao giờ hết. Tôi đã đọc hàng nghìn trang văn bản của tòa án, bao gồm cả những buổi cung khai pháp lý đọc chẳng khác gì mấy tập phim Drunk History. Larry Biegler đã dập máy trước, lúc đang nói chuyện với tôi. Cảnh sát đã hủy bỏ cuộc hẹn vào đêm trước ngày tôi bay đến gặp họ ở LA. Rồi một ngày nọ vào mùa hè năm ngoái, chuông điện thoại của tôi đã vang lên. “Xin chào! Tôi là Jerry Ferrara!” một giọng nói vang lên. Ferrara là một trong số rất nhiều những người đã tự nhận rằng hòn lục bảo đã hủy hoại cuộc đời mình. Ông ta trước đây đã từng từ chối nói chuyện với tôi một lần, nhưng bây giờ ông lại bảo ông muốn làm mọi chuyện cho ra nhẽ. Vì thế nên ông đã gửi cho tôi một bản copy của tập hồi ký chưa từng được xuất bản của mình, và đã bỏ ra một vài tiếng để trả lời những câu hỏi sơ bộ của tôi, rồi mời tôi đến thăm ông tại Florida.
Lúc gặp nhau, Ferrara đang ngồi cùng với một “nhà phân tích tâm lý hành vi” có tên Chrystal. “Cô ấy ở đây để phát hiện dối trá,” ông nói.
Jerry Ferrara là một người gốc Sicily, 50 tuổi, to lớn và đầy lông lá. Ông đã nằm trong vòng xoáy của Hòn lục bảo Bahia suốt 9 năm trong quãng thời gian 16 năm nó xuất hiện. Ngày tôi đặt chân đến Tampa, ông đã hẹn tôi đến gặp tại một quán Dunkin’ Donuts gần trụ sở công ty dịch vụ giảm cân Bottoms Down Weight Loss, cùng với các loại bảng hiệu có đề ““1USD mỗi ngày thuốc” và “Tìm kho báu của riêng bạn tại hiệu quần áo Peaches & Pearls.” Ông vận một chiếc quần jeans ống suông, một đôi giày thể thao trắng, và một chiếc sơ mi đánh golf màu xám. Ông ngồi xuống, trông mặt có đôi phần hồi hộp, thêm một chút tức giận, nhưng đồng thời cũng cạo râu sạch sẽ và điệu bộ rất nghiêm trang, như thể ông đang đi phỏng vấn xin việc vậy.
“Dân Brazil đang gây khó dễ cho cuộc sống của tôi” ông nói, kể về những khó khăn trong công cuộc theo đuổi lục bảo của mình. “Nhưng tôi có hối hận không? Không hề.” Nói đoạn ông khoanh tay lên trên mặt bàn. Tay của ông trông rất rắn chắc. “Tôi đã đánh mất đi danh tính của chính mình. Giờ đây khi nhìn vào trong gương tôi đã không còn nhận ra kẻ đang nhìn thẳng lại tôi là ai nữa.”
Ferrara đến cùng với một người phụ nữ khá gầy gò có tên Chrystal, người mà ông giới thiệu là một “chuyên gia phân tích tâm lý hành vi,” có nghĩa rằng chuyên môn của cô là đánh giá con người. “Cô ấy ở đây để phát hiện kẻ dối trá,” ông nói. Họ kể với tôi là có tới 14 loại tính cách khác nhau của con người. Khi tôi hỏi Chrystal rằng Jerry thuộc loại tính cách nào, ông đã trả lời tôi trước khi cô kịp mở miệng. “Cổ sẽ bảo rằng tôi là một gã đê tiện cho coi.”
Một vài phút sau, Ferrara xin phép đứng dậy để lấy cà phê. Tôi đã hỏi nhỏ Chrystal, người có một đường tóc màu tím rất cá tính và đang đeo một chiếc vòng cổ lục bảo, rằng thực sự thì cô nghĩ thế nào về con người của Ferrara.
Cô vừa liếc nhẹ về phía người phụ nữ đang chơi ô chữ bên cạnh chúng tôi vừa suy nghĩ xem nên trả lời thế nào. “Tôi sẽ kể làm sao để ông ấy không phải trở thành một con người tồi tệ,” cô bảo. “Có đôi lần, ông ấy đã phải làm những điều xấu xa để bảo vệ bản thân cùng những con người mà ông hết mực quan tâm.”
Lần đầu Ferrara nghe thấy về hòn lục bảo là trong những ngày tháng không mấy tốt đẹp. Đó là vào tháng Mười một năm 2007. Lúc đó ông còn đang phải ngủ trong xe vào ban đêm, và ban ngày thì phải tìm cách tuồn những bữa ăn sáng thượng hạng tại các khách sạn ra ngoài cho mấy đứa con gái của mình. Lũ trẻ lúc đó đang phải ngủ trên sàn nhà của dì chúng. Trong suốt bảy năm trước đó, ông đã chăm lo cho gia đình bằng công ty riêng của ông, Honest Father Buys Houses (Người cha thành thực mua nhà), chuyên mua và bán lại các căn nhà cùng các loại tài sản thương mại khác. Thế nhưng đen đủi thay, một ngày nọ, thị trường bất động sản tê liệt. Ferrara mất trắng tất cả, và ông bắt đầu phải làm việc để giành lại quyền được điều khiển cuộc đời của mình, theo lời ông nói, bằng cách bán danh mục các căn nhà đã bị tịch thu cho Lehman Brothers. Khi ngay cả những giao dịch đó cũng thất bại, Ferrara, lúc này đang hoảng loạn, đã gọi điện cho từng người môi giới và từng nhà đầu tư ông có thể gọi. Thế rồi sớm muộn, ông kể, ông đã nói chuyện qua điện thoại với Larry Biegler. (Người đã gọi điện cho cảnh sát ở Temple City, nhớ ông ta chứ?) Ban đầu thì Biegler không có mấy hứng thú với tài sản bị tịch thu. Nhưng ông ta cần một ai đó giúp mình bán một hòn lục bảo khổng lồ.
Hòn lục bảo Bahia đã phải trải qua rất nhiều biến cố. Nó được đào lên vào đầu năm 2001 từ mỏ đá Carnaiba thuộc bang Bahia tại Brazil. Sau đó, theo một vài lời tương truyền (có phần đáng nghi) trong lịch sử của hòn lục bảo, đội ngũ kéo nó về qua khu rừng mưa nhiệt đới đã bị tấn công bởi báo rừng—hoặc một loài động vật nào khác—và bản thân những người thợ mỏ cũng đã phải bê nguyên hòn lục bảo nặng 340kg đi suốt cả quãng đường còn lại để trở về với văn minh. Từ thị trấn, nó được chở bằng xe tải về phía Nam tới São Paulo, sau đó được phủ lên bằng một tấm vải bạt tại nhà của một trong số những chủ mỏ. Những thợ mỏ này, hóa ra, lại có một người bạn và cũng là một đối tác làm ăn ở San Jose, California. Tên của người đó là Ken Conetto.
Một chút về Conetto: Cũng giống như Ferrara, ông cũng mang gốc Sicily, và đã dành cả cuộc đời để tìm các thương vụ. Ông cũng đã một lần có cơ hội đứng tên một vài mỏ khai thác silica ở Nevada, nhưng khốn đốn thay lại chưa bao giờ phất được lên. Trên thực tế, trong vòng 11 năm trở lại đây, ông đã sống trong một chiếc rơmoóc với mẹ của mình, bà Gertrude, người đến nay đã 99 tuổi. Nằm la liệt khắp nơi trong chiếc rơmoóc là nửa tá các cặp kính khác nhau, 10 chiếc dây xích chó, sáu chiếc ghế La-Z-Boy, và một đống hộp thuốc tôi không tài nào đếm xuể, một chiếc hộp khổng lồ đựng ngũ cốc Wheaties với hình của Stephen Curry dán bên ngoài, bốn chiếc xe đạp, 10 cái chăn lông cừu, ba bộ TV (hai bộ đang bật).
Lúc tôi đến thăm, ông đã mời tôi một cái bánh kem cà phê, vài quả cam, và nước đóng chai rồi bảo rằng tôi có thể quay lại bất cứ lúc nào tôi muốn. Đó là một sự tử tế mà ngay cả những người tôi vẫn gọi là bạn cũng khó lòng có thể sánh bằng. Mỗi lần nói chuyện, tâm trí của ông lại như trôi dạt đi nơi nào. Những câu chuyện ông kể thường rất khó theo kịp. Ông bảo, nếu có một ngày ông có thật nhiều tiền, thứ đầu tiên ông mua sẽ là một chiếc thuyền lớn tam thân có thể đạt tới tốc độ 50 hải lý—”Tôi sẽ không phải làm bữa tráng miệng cho cá mập!” Rồi sau đó ông sẽ lái con thuyền đó tới bờ biển Adriatic và chuyển nhà vào tòa lâu đài ông đã từng nhìn thấy một lần ở Dubrovnik. Nhưng một khi lớp vỏ bọc cứng cựa của mình đã rơi xuống, Conetto là một con người đầy chua chát. Ông có một cô con gái đã trưởng thành tên là Kendall, cái tên được ông đặt theo chính tên của mình; ông đã không được gặp cô từ khi cô mới 3 tuổi. “Lúc đó tôi vẫn chưa sẵn sàng cho chuyện hôn nhân,” ông kể với tôi về những thất bại đầu đời của mình. “Tôi chỉ lánh đi.” Ông cho rằng Hòn lục bảo Bahia chỉ là rác rưởi. “Cái thứ đó là một đống phân hải cẩu Siberia bẩn thỉu.” Mỗi lần đến thăm Conetto là một lần tôi trở về trong tâm trạng buồn bã.
Năm 2000, trong cuộc bùng nổ Internet đầu tiên, Conetto có quen một gã khá dễ thương có tên là Tony Thomas, người đã đổrất nhiều tiền vào một công ty khởi nghiệp mà hiện nay đang cần thêm rất nhiều tiền nữa, nếu Thomas muốn lấy lại số tiền đầu tư ban đầu của mình. Theo lời khai của Thomas trong các văn bản của tòa án, Conetto đã đề nghị được giúp đỡ với một kế hoạch rất phức tạp. Thomas và Conetto sẽ bay tới Brazil. Với những người thợ mỏ mà Conetto quen biết, họ sẽ huy động được số lục bảo đáng giá tới 25 triệu USD (có nghĩa là các viên lục bảo mà họ sẽ bán lại để lấy 25 triệu USD, còn Conetto và Thomas sẽ mua với giá thấp hơn rất nhiều). Họ sẽ dùng các viên lục bảo làm tài sản thế chấp cho một khoản vay khổng lồ. Và với số tiền đó họ sẽ dùng để đầu tư vào một “quỹ” với lãi suất cao mà có thể đảm bảo các khoản lợi nhuận cực lớn thông qua Phòng Thương mại Quốc tế. Bằng cách đó, công ty khởi nghiệp của Thomas sẽ có được số tiền nó cần để tiếp tục sống sót và Thomas sẽ trở thành một người đàn ông cực kỳ giàu có.
Tháng 9 năm 2001, Thomas và Conetto bay tới Brazil. Ở São Paulo, những người bạn thợ mỏ của Conetto đã thu xếp để họ có thể đến tham quan số ngọc lục bảo đã gọt dũa và làm bóng trị giá 25 triệu USD. Buổi gặp mặt hôm đó quả là một thảm họa—cửa hàng mài đá đã đổ nát, và những người đáng lẽ ra đã phải đến để minh giám cho cuộc giao dịch đã không đến. Những người thợ mỏ sau đó đã cố gắng bù đắp bằng cách đưa Thomas và Conetto tới nhà của một trong số họ để chiêm ngưỡng kho báu thực sự: hòn lục bảo 340kg trong kho xe. Theo lời của Conetto, một con mèo trắng đã “bậy” lên hòn đá khổng lồ này khi họ tới, nhưng dù vậy thì Thomas đã bị mê hoặc hoàn toàn. Trông ông “như thể mình vừa tìm được kho báu của Ali Baba,” một trong số những người thợ mỏ sau đó đã nhớ lại tại tòa án. Thomas, lẽ dĩ nhiên, rất muốn có hòn ngọc quý này. Những người thợ mỏ, theo báo cáo, đã ra giá ở mức 60.000USD.
Gần như tất cả mọi người liên quan đều có một phiên bản của riêng họ về những gì xảy ra tiếp theo đó. Thomas bảo rằng ông ta đã bay về nhà và chuyển số tiền tới São Paulo. Sau đó ông bắt đầu nghiên cứu để xác định giá trị thực sự của hòn lục bảo. Ông đã liên lạc với những đối tác làm ăn cũ và nhận được một tin mừng. Một viên ngọc có thể so sánh dễ dàng nhất với nó hiện đang nằm tại Bảo tàng Anh: một hòn lục bảo nhỏ hơn một chút có giá 792 triệu USD. Theo lời của nhân chứng, Thomas đã chuyển lại thông tin này cho một người định giá ông đã gặp ở Brazil. Vào ngày 5 tháng Mười một năm 2001, người định giá—tạm cho là đã nhìn thấy hòn Bahia—đã viết: “Một mẫu vật hiếm có chưa có ai từng thấy, kể cả có là ở một sàn đấu giá quốc tế như Sotherby’s … Hòn ngọc trong báo cáo này được tôi dự kiến có giá khoảng 925 triệu USD.”
Với những viên ngọc to lớn và hiếm thấy như thế này, chuyện chúng thu hút đủ các chuyện bi hài cũng là điều khó tránh. Viên ngọc Tanzania, một viên ruby 10 nghìn cara, đã từng được định giá ở mức 11 triệu bảng Anh, nhưng cuộc định giá đó cuối cùng hóa ra lại là một trò lừa đảo. Sự sống và Niềm tự hào nước Mỹ – một viên đá saphia (sapphire) 1.905 cara, được mua về với giá 10 USD dù trong một thời gian dài nó đã được định giá ở mức 2,28 triệu USD. Sau đó một người quản lý tại phòng Đá quý và Thu thập Khoáng sản thuộc Viện Smithsonian đã thẩm định viên đá, và tuyên bố rằng màu sắc của nó là “tệ hại—trông nó chỉ như một màu xám đục,” và giờ thì viên saphia đó chỉ đáng làm chặn giấy. Gần đây, vào tháng Một năm 2016, báo chí đã đưa tin về việc viên saphia sao xanh lớn nhất thế giới đã được tìm thấy, đó là viên Ngôi sao Adam ở Sri Lanka. Người chủ giấu tên của viên đá đã nói với BBC rằng nó có giá trị ước tính lên tới 175 triệu USD. Chúng ta sẽ cùng chờ xem.
Trong quãng thời gian hòn lục bảo Bahia còn đang trôi nổi trong thị trường, tức là đã ra khỏi mỏ khai thác nhưng còn chưa được an toàn trong két sắt của cảnh sát trưởng, một hòn lục bảo khác được cho là lớn nhất thế giới cũng đang trôi nổi như vậy. Hòn đó được đặt tên là Teodora. Nó nặng khoảng 11,3kg và được cho là có giá khoảng 1.15 triệu USD. Một thương gia đá quý người Canada có tên Regan Reaney đã đặt nó lên sàn đấu giá vào tháng Một năm 2012—sau đó ông đã bị bắt với tội danh lừa đảo. Teodora, đáng tiếc thay, chỉ bảo gồm các viên beryl trắng hạng xoàng, được nhuộm màu xanh lá cây.
Còn với hòn lục bảo Bahia, như Thomas đã khai trước tòa, vào tháng Mười một năm 2001, Conetto đã bảo rằng ông ta sẽ gửi nó về Mỹ cho Thomas. Ông đã đợi chờ mòn mỏi, nhưng hòn lục bảo chẳng bao giờ đến. Vì thế nên một vài tháng sau, ông đã yêu cầu Conetto quay trở lại Brazil để điều tra điều gì đã xảy ra, chỉ để cuối cùng nhận ra điều tồi tệ nhất rằng: Hòn lục bảo đã bị cướp mất trên đường tới California. Xin lỗi, bọn nhân viên xuất khẩu đã tuồn nói ra ngoài mất rồi, Conetto nói. Liệu anh làm gì được đây?
Conetto thì lại có một câu chuyện khác hẳn. Ông khai rằng Thomas chưa bao giờ bỏ tiền mua hòn lục bảo và rằng ông, Ken Conetto, chưa từng một lần hứa sẽ gửi về nhà cho Thomas. Và dù có ra sao đi chăng nữa, thì trong bốn năm sau đó, Conetto và những ông bạn thợ mỏ của mình đã ra sức tìm cách đẩy cho giá trị thẩm định của hòn lục bảo cao lên, liên tục lên kế hoạch để rút tiền vay trái với chính sách bảo hiểm của nó. Họ đã lừa thành công được một gã ngốc, nhưng hội thợ mỏ vẫn cằn nhằn không ngớt. Vì thế, năm 2005, Conetto đã gửi hòn lục bảo, lần này là gửi thật, tới San Jose, California. Và trên tờ khai gói hàng ông chỉ ghi “rocha: rochedo—đá” và ghi giá của nó là 100USD.
Tony Thomas và Ken Conetto tới Brazil cùng với kế hoạch mua lại số lục bảo trị giá 25 triệu USD
Tại nhà hàng Dunkin’ Donuts ở Tampa, Ferrara đã mời tôi đi cùng với ông trong một chuyến công tác mà ông gọi là việc của ngày hôm đó. Theo như những gì tôi biết, thì ông không phải là một thám tử tư có giấy phép, nhưng vụ hôm đó lại là một vụ theo dõi. Đầu tiên, chúng tôi cần phải có một thứ Ferrara gọi là “một chiếc xe ít gây chú ý.” Vì thế nên sau khi rời khỏi Dunkin’ Donuts, chúng tôi dừng lại ở một tiệm cầm đồ U-Haul, nơi Ferrara đã thuê một chiếc bán tải màu trắng với buồng lái rộng và hệ thống điều hòa miễn chê. Sau đó Ferrara, Chrystal và tôi đã tới chỗ người khách đã đặt dịch vụ theo dõi này. Đó là một người phụ nữ 53 tuổi, sống tại một trong số những cộng đồng biệt lập rộng mênh mông và vô cùng buồn bã của Tampa, mỗi nơi lại có những con đường riêng vắng tanh vắng ngắt và những đầm lầy xám xịt. “Không thể tin nổi. Bà ta mất đến hàng triệu đô cho ông chồng của mình,” Ferrara nói thế với tôi khi ông dừng xe lại trước cửa nhà của bà. “Bà ta vẫn còn một vài bức tranh Kinkade bên trong.” Việc của Ferrara trong vụ này, theo lời ông nói, là “tìm và lật tẩy tiền và tài sản” và có lẽ là hù dọa cho ông chồng mất vía một phen. “Tôi làm việc này vì chất adrenaline trong máu,” ông bảo. “Con người tôi có rất nhiều mặt. Một mặt thì tôi có một tâm tính rất bình tĩnh theo kiểu Disneyland. Nhưng một mặt khác thì tôi lại là một gã Mafia hung ác, tàn bạo và lạnh lùng.”
Sau đó, chúng tôi tới chỗ làm nhiệm vụ theo dõi thật sự, tức là ngồi trong chiếc U-Haul bên ngoài một khu gửi xe gần Cảng Vịnh Tampa. “Nhiệm vụ theo dõi là thế,” Ferrara bảo vậy, khi cái nhiệm vụ nhạt nhẽo này mới bắt đầu được vài phút. “Đôi khi anh bắt buộc phải chờ thôi.” Cuối cùng thì ông đã phải rời ra khỏi thứ niết bàn trần gian đó là chiếc xe tải có điều hòa này để đi tìm hiểu xem liệu chồng của người phụ nữ nọ đã hoàn thành giao dịch mua một chiếc xe đắt tiền hay chưa. Ông đặt chân vào trong gara và nhắn tin cho Chrystal, “Tôi vào rồi.” (Gara được mở ra cho công cộng.) Trong cabin, Chrystal mở máy laptop của cô lên và cho tôi xem website của Ferrara, một công ty có tên gọi Global Quest. Ở đó có những bức hình của những chiếc mặt nạ và các loại trang sức cổ vật bằng vàng thời tiền Columbia. “Đa phần các cổ vật đều đến từ những người có máu mặt. Họ không muốn tiết lộ danh tính,” Chrystal nói. Ferrara đã phát hiện ra những cổ vật này, hoặc cũng có thể ông chỉ đang môi giới cho chúng—không ai biết rõ cả. Ông trở về chiếc U-Haul sau đó với mấy tấm ảnh chụp những chiếc xe hơi rồi chúng tôi rời đi. Tối hôm đó, trong bữa cơm, ông nói với tôi rằng ông đã từng có cơ hội bán một bức tranh của Leonardo da Vinci. Nhưng không có nhà sử học mỹ thuật nào muốn chứng thực cho bức tranh đó bởi vì nó được vẽ trên vải bố, và da Vinci thì chưa bao giờ vẽ trên vải bố cả. (Ferrera gọi thứ lập luận đó là hết sức nực cười, và cãi lại rằng, “Hồi đó có vải buồm mà, phải không?”)
Tất cả mọi thứ đều thật rắc rối—vụ theo dõi, bức tranh của da Vinci, và hơn hết là hòn lục bảo Bahia. Bởi vì, không giống như mấy chiếc mặt nạ tiền Columbia và bức tranh, tôi biết rõ rằng hòn đá quý 340kg đó thực sự tồn tại. Bằng cách nào nó lại đến được hầm chứa của Phòng cảnh sát trưởng Los Angeles thì là một câu chuyện phức tạp, nhưng theo những gì mà tôi đã cố gắng hết sức có thể để gắn các mảnh ghép lại với nhau từ các văn bản của tòa án (và công sức nghiên cứu của một đồng nghiệp nhà báo), thì câu chuyện là thế này: Sau khi Conetto đã nhập hòn ngọc về tới San Jose, ông đã thỏa thuận với Larry Biegler, người đàn ông với chất giọng chát tai, cũng là người đã gọi điện cho cảnh sát ở đầu câu chuyện.
Biegler tỏ ra bề ngoài là một con người chỉn chu và giàu có. Giống như Thomas, ông cũng đã ngay lập tức bị hớp hồn bởi hòn lục bảo, và tin chắc rằng mình sẽ bán được nó cho một gã ngốc thừa tiền nào đó. Vì thế Biegler đã thỏa thuận với Conetto. Conetto sẽ trao quyền được bán hòn lục bảo cho Biegler. Nếu Biegler bán được nó, họ sẽ chia phần 50-50.
Đây là một trong số rất nhiều những chi tiết khiến cho tôi không khỏi thắc mắc trong khi viết bài về câu chuyện này. Trên đời dễ gì có chuyện một người cứ thế bảo với một đối tác làm ăn chẳng hiểu ở đâu ra rằng, “Ê, anh có muốn 50 phần trăm của hòn lục bảo trị giá 925 triệu USD của tôi không?” Nhưng Brazeal, một chuyên gia về lục bảo, đã khẳng định với tôi: Không có nhiều người muốn mua một hòn ngọc khổng lồ như thế đâu. Năm mươi phần trăm của 925 triệu là 462,5 triệu, còn 100 phần trăm của 0 là chả có gì hết. Vì thế, sau khi Biegler đã sở hữu được hòn lục bảo, ông đã làm một điều tương tự. Ông đã hứa với một thương gia đá quý ở New York rằng nếu ông, vị thương gia đá quý đó, có thể nhận được 10 phần trăm số tiền nếu ông có thể bán được hòn đá quý đó với giá trên 25 triệu USD. Vị thương gia này sau đó đã đăng tin bán hòn lục bảo trên eBay (đúng vậy đấy). Mức giá khởi điểm là 19 triệu USD, và giá “mua đứt” là 75 triệu USD. Chỉ có duy nhất một người chịu trả giá—với 19 triệu—nhưng rồi Biegler lại từ chối không cho phép vị thương gia bán nó. Ông tuyên bố rằng hiện đang có một thỏa thuận 75 triệu USD đang trong đàm phán rồi.
Một trong số những điều đáng kinh ngạc của hòn lục bảo Bahia, đó là sự quyến rũ của nó không bao giờ hết hiệu nghiệm. Người này vừa rơi ra khỏi móng vuốt của nó, kẻ khác đã nhanh chóng nhảy vào. Năm 2007, kẻ đã nhảy vào đó chính là vị khách Florida của tôi, Jerry Ferrara. Theo lời của ông, Biegler đã tiếp cận Ferrara và bảo với ông rằng ông, Ferrara, chính là người mà ông ta đang tìm kiếm để bán hòn đá. Lúc đó Ferrara đang tuyệt vọng và gần như vô gia cư, và đây là điều mà ông đã mong mỏi được nghe bấy lâu. “Lúc đó thật không thể tin nổi,” Ferrara nói. “Biegler xuất hiện với một phong bì manila và trao quyền sử hữu của hòn lục bảo lớn nhất thế giới cho tôi. Ông ta bảo rằng ông ta đang tìm kiếm một con người như tôi.”
Ferrara sớm đã lại bị cuốn vào một phi vụ khác nữa của Biegler, đó là bán kim cương cho một gã Mặc Môn đến từ Idaho có tên Kit Morrison. Ferrara mô tả Morrison là một người “xa cách, cực kỳ kín tiếng. Dễ gần ư? Không. Ông ta mặc một bộ vét thủ công của Ý, một đôi giày da thủ công cũng của Ý.” Morrison đã gửi cho Ferrara 1,3 triệu USD, vốn để mua kim cương. Và đổi lại, Ferrara nói, ông đã đặt hòn lục bảo Bahia làm tài sản thế chấp. Sau đó thương vụ thất bại—Ferrara chả có viên kim cương nào cả. Vì thế hòn lục bảo rơi vào tay Morrison.
Chuyện này đáng lẽ ra đã phải khiến họ trở thành kẻ thù, nhưng giờ đây họ bỗng dưng lại có cùng chung một mục tiêu: tìm ra cách kiếm được tiền từ hòn đá này. Và thế là họ trở thành cộng sự, nếu không muốn nói là bạn bè. “Chúng tôi cứ như thể có một chiếc xe chất đầy vàng,” Ferrara giải thích. “Cả hai chúng tôi như đang nằm ngủ bên lửa trại, với một mắt mở, một tay nắm chặt khẩu súng dưới gối.” Vào lúc đó thì hòn lục bảo đang nằm trong một đơn vị lưu trữ, đó là hầm chứa Commonwealth International ở phía Nam El Monte, California. Ferrara và Biegler về cơ bản là những người duy nhất có quyền tiếp cận nó (mặc dù trước tòa, Ferrara và Morrison đã nói rằng cả Morrison cũng có quyền đó).
Ferrara bảo tôi rằng chỉ có những người đã chứng tỏ được rằng họ có khả năng mua được hòn lục bảo đó mới có thể được chiêm ngưỡng nó. Sheikhs đã đến để ngắm. Conetto khẳng định như đinh đóng cột rằng kể cả kẻ lừa đảo khét tiếng Bernie Madoff cũng bay đến và đã định mua hòn lục bảo với giá “91 triệu USD bằng kim cương, 21 triệu USD bằng tiền mặt, và ba chiếc đồng hồ đeo tay trị giá 15 triệu USD.” Nhưng đáng tiếc thay, Madoff đã bị bắt hai ngày trước khi thương vụ đó được khép lại.
Tháng Sáu năm 2008, Biegler biến mất. Ông ta đã dàn xếp một vụ bắt cóc chính mình bởi một lãnh chúa Brazil, rồi gửi lời tới Ferrara rằng ông cần một khoản tiền chuộc để được thả ra. Việc này đã khiến cho Ferrara phải nghĩ lại về tất cả những lần trong năm vừa rồi mà Biegler đã đòi Ferrara phải gửi tiền, những yêu cầu mà Ferrara đã đồng thuận vì ông không muốn cơ hội được bán hòn lục bảo với giá triệu đô tan biến như bọt xà phòng. Và sớm muộn, Ferrara đã khám phá ra được sự thật: Biegler hóa ra không hề giàu có sang trọng như hắn thể hiện. Trên thực tế, hắn là chủ sở hữu một công ty tên là B&B Plumbing ở Citrus Heights, California. “Tôi đã bị lừa bởi một gã thợ sửa ống nước! Cô có tin nổi không?” Ferrara bảo tôi. B&B Plumbing thậm chí còn chả có nổi một lời nhận xét tử tế nào trên Yelp. (“Thuê Larry đến lắp đặt một cái máy rửa bát. Hắn nhận 125USD của tôi rồi lặn mất tăm …” “KHÔNG THẤY ĐẾN!!” Và họ đánh giá một sao cho dịch vụ của gã thợ sửa ống nước này).
Căm phẫn vì bị phản bội, Ferrara nói rằng ông đã thuyết phục được thư ký tại Commonwealth International cho phép ông thu hồi lại hòn lục bảo trong kho chứa mà không có mặt của Biegler. Họ đặt hòn lục bảo lên một chiếc SUV Cadillac Escalade và đi về phía đông, về phía Vegas. Theo lời Ferrara, trong vòng chưa tới 24 giờ sau đó Biegler đã đến Commonwealth International chỉ để thấy hòn lục bảo đã không cánh mà bay.
Hôm sau, tôi lại đến chỗ theo dõi cùng với Ferrara. Chúng tôi lái chiếc bán tải U-Haul tới nhà của một người bạn của ông có tên Kris Rotonda. Một trong số những mối làm ăn hiện tại của Ferrara là làm việc với Rotonda để thực hiện My Pet Shopping Network. Nếu mọi thứ được suôn sẻ, mạng lưới này sẽ trở thành một người khổng lồ truyền thông giống như Home Shopping Network nhưng lại dành cho các sản phẩm thú cưng. Chúng tôi ngồi tại phòng khách nhà Rotonda, nơi ba con chó của ông đang chạy lòng vòng và nhảy tưng tưng trên nền gạch xếp, và cô bé gái của Rotonda thường xuyên bò vào, theo sau là vợ Rotonda. Khung cảnh lúc đó thật ấm cúng, hết sức bình thường, và không một chút gì trang trọng. Và chỉ có ở đó tôi mới được thấy Ferrara thư giãn đến thế kể từ khi tôi đặt chân đến nơi này. Rotonda cho chúng tôi xem một đoạn phim quảng cáo cho Pet Shopping Network của họ. Trong đó, ông đang giới thiệu một sản phẩm có tên gọi Pooch Selfie, bao gồm một quả bóng tennis được đính vào một chiếc smartphone để con chó nhà bạn có thể nhìn thẳng vào nó, và bạn có thể chộp được một tấm hình “tự sướng” để đời với tất cả mọi người đều nhìn thằng vào camera.
“Ổn đấy chứ?” Ferrara nói, khi đoạn phim kết thúc. Kể ra cũng không tệ chút nào. Sau đó thì Ferrara cũng trở nên thực tế hơn đôi chút. “Đa phần các mạng lưới còn đang bận làm hàng tỷ thứ khác nên họ làm gì có thời gian gặp mặt chúng tôi.”
Câu chuyện cuộc đời của Ferrara trải đầy những sự đau thương. Ông kể với tôi rằng mẹ ông đã bỏ đi khi ông mới 4 tuổi và ông không được gặp lại mẹ cho đến tận tuổi 15. Người em gái của ông thì đã mất từ khi còn là một đứa trẻ. Mẹ kế của ông thì bắt ông phải ngủ mà chỉ có nệm, chứ không có chăn, trải qua mùa đông lạnh giá ở New Jersey. Một ngày nọ khi ông đang đi bộ về nhà từ một công việc làm thêm sau giờ học, trong một ngày trời lạnh -20 độ C, bà có lái xe qua đó nhưng không chở ông về. Năm 2004, chị của ông đã hỏi vay tiền.
Ferrara bảo tôi rằng ông đã đưa cho chị mình vài nghìn đô la. Sau đó thì bà đã mất vì uống thuốc quá liều. Trong số những câu chuyện kỳ quái hơn nữa về gia đình của mình, ông cũng kể với tôi rằng ông có một người cậu sở hữu một bãi đồng nát ở Edison, New Jersey, và khi các nhà phát triển đến đó mua lại mảnh đất và dọn dẹp nó, họ đã tìm thấy 79 bộ xương người được chôn dưới lớp đất.
“Nói chung lại một điều là tôi muốn soda của tôi không có ga và ngũ cốc của tôi phải ướt,” Ferrara nói. Điều đó có vẻ như đã tóm gọn lại được nhân sinh quan cuộc đời của ông.
Tôi đã hỏi xem liệu ông có thích thú nuôi hay không và ông đáp ngay rằng, “Không! Tôi ghét tất cả bọn chúng! Bọn khốn đó!” (Sau đó ông đã bảo rằng đó chỉ là đùa.)
Ông không có thói quen uống rượu, ông bảo “Tôi vốn đã đang bị cảnh sát để ý rồi,” và rượu bia sẽ chỉ làm cho ông càng trở nên một gã xấu tính hơn thôi.
“Tôi cũng ghét cả thể thao nữa!”
Chỗ xả hơi duy nhất của Ferrara là ngồi hút thuốc Marlboro Black và xem SpongeBob SquarePants. “SpongeBob có cái tính rất quan tâm đến mọi người, cậu ta nhìn thấy được những điều tích cực nơi những người xung quanh. Cậu ta luôn cố gắng để làm mọi người cười,” Ferrara giải thích. Tập phim ưa thích của ông là “Band Geeks,” mà ở đó Squidward lại một lần nữa thất bại. Cậu ta nói dối và hứa rằng band nhạc không hề tồn tại của mình sẽ tổ chức một chương trình lớn tại Bubble Bowl, chính là giải Super Bowl trong thế giới Bikini Bottom. Cậu ta chắp vá nên được một band nhạc nhưng, Ferrara bảo, “cậu ta chẳng quen ai có tài năng cả.” Cậu ta sẽ chỉ tự làm nhục mặt chính mình mà thôi. “Chương trình bắt đầu. Squidward đang vã mồ hôi như tắm,” Ferrara nói. “Nhưng rồi chương trình đã thành công mỹ mãn.” Từ sau cánh gà, SpongeBob đã bước lên để cứu ông ta, biến những người bạn của Squidward thành những nghệ sĩ đại tài. Thành công của Squidward đã vượt xa cả những giấc mơ điên rồ nhất của cậu.
Những người trong nhà tôi nghĩ rằng nó thật là khó chịu,” Ferrara kể, kết thúc lời trần thuật của mình, “nhưng đời tôi cực kỳ vất vả, với đầy những lo lắng thường trực. SpongeBob giúp tôi giải tỏa. Đừng có cho tôi xem phim kinh dị. Đừng bắt tôi phải xem phim Mafia. Đó vốn là cuộc đời tôi rồi.”
Sau khi Larry Biegler nhận ra hòn lục bảo đã bốc hơi khỏi đơn vị lưu trữ Commonwealth International, ông đã gọi điện cho cảnh sát Temple City và báo với vị trung sĩ đang trực rằng hòn lục bảo của mình đã bị ăn cắp, và rằng ông đã bị bắt cóc và vừa được thả bởi mafia Brazil. Việc này đã dẫn đến sự xuất hiện của hai thám thử thuộc Phòng cảnh sát trưởng Quận Los Angeles Miller và Gayman. Ferrara và Morrison đã nhanh chóng trở thành nghi phạm. Hai vị thám tử mất một vài tuần để xác định được vị trí của họ. Và vào ngày 15 tháng Mười hai 2008, Miller và Gayman đã ở Eagle, Idaho, tại chân đồi Boise, để theo dõi căn nhà của Morrison. Họ đặt một vòng phong tỏa ở đó rồi cuộn mình trong chiếc xe thuê của họ trong hai ngày.
Vào ngày thứ ba, họ đến gõ cửa nhà Morrison. Vợ của ông đã trả lời và nói Morrison không có nhà. Trong khi các thám tử đang nói chuyện với bà, họ nhìn thấy một người đàn ông đang đi lại xung quanh khu nhà. Đoán đó là Morrison, họ đã áp chế người đó. Nhưng hóa ra đó chỉ là một người sửa chữa dây điện. Vợ của Morrison đã gọi được cho Morrison qua điện thoại và ông đã có một thỏa thuận với Miller và Gayman. Ông đồng ý gặp các vị thám tử tại Las Vegas, nơi ông và Ferrara đã cất giữ hòn lục bảo, và họ sẽ đưa nó cho Phòng cảnh sát trưởng với điều kiện rằng cả hai người bọn họ, Ferrara và Morrison, sẽ không bị bắt giữ. Sau đó Miller và Gayman đã bay về trụ sở tại Burbank và thu xếp một tiểu đội, bao gồm một tá sĩ quan với súng trường, và đã hành quân cả đêm qua đường cao tốc I-15. Khi họ tới hầm chứa lúc 7 giờ sáng, Phòng Cảnh sát Metro Las Vegas đã đang trong quá trình tác nghiệp thực địa cùng với một đội SWAT và có cả trực thăng hỗ trợ. Morrison xuất hiện trong một chiếc áo khoác thể thao và quần slacks, và chỉ trong vòng một giờ, Miller và Gayman đã lôi ra một chiếc xe đẩy piano, ở trên là một hòn lục bảo khổng lồ. Ai cũng cố gắng chụp một tấm selfie với viên đá to lớn. Xong xuôi, các vị thám tử đã cho đặt hòn lục bảo Bahia lên một chiếc xe thùng cảnh sát, chở nó về qua vùng núi San Gabriel, và liệt nó vào làm bằng chứng cần bảo vệ.
Như đã hứa, Phòng Cảnh sát trưởng Los Angeles đã đệ câu hỏi rằng ai là chủ sở hữu của hòn lục bảo Bahia lên Tòa án Tối cao Los Angeles. Đã có không biết bao nhiêu cuộc chiến pháp lý nổ ra từ năm 2007 đến năm 2015: Conetto kiện Morrison, Thomas thì kiện Conetto, nhà buôn New York thì kiện Biegler. Ferrara đã dành rất nhiều ngày để dự họp thỏa thuận, và rất nhiều đêm trốn chui trốn nhủi trong góc tối tại sảnh các khách sạn để khỏi phải trả tiền phòng. Chỉ có duy nhất một lần, ông đã lao qua cả bàn của khán phòng và dọa sẽ đánh ai đó nhừ tử.
Trong suốt cuộc thi hành pháp lý này, Biegler đã biến mất. Conetto thì còn mải mê với một thương vụ làm ăn mới cùng với một người bạn về việc chuyển hóa phân bón thành điện năng. Các vị thám tử thì tin rằng hòn lục bảo thuộc về Thomas.
Bởi dù sao thì tòa án cũng đã xác định rằng ông là nguyên cáo duy nhất đã từng bỏ tiền ra để trả cho hòn lục bảo này. Nhưng Thomas lại không tỏ ra quá thuyết phục tại buổi xử án của mình. Một số điểm đáng lưu ý đã không đứng về phía ông. Thứ nhất, ông chưa bao giờ gọi cho FedEx để kiểm tra xem điều gì đã xảy ra với kiện hàng 925 triệu USD của mình. Thứ hai, ông tuyên bố rằng ngôi nhà của mình đã bị cháy rụi năm 2006 và đã thiêu sạch bách số hóa đơn của ông. (Tòa án cho rằng điều này quả thực là tiện cho ông một cách đáng ngờ.) Và đồng thời hóa ra, mặc dù việc này không được hé lộ trong buổi xét xử nào, nhưng trên thực tế chẳng có hòn lục bảo lớn nào tại Bảo tàng Anh ở London cả. Toàn bộ câu chuyện về hòn đá trị giá 792 triệu USD chỉ là giả mạo.
Tòa án đã gặp khó khăn trong việc xác định rõ xem ai là người sở hữu hòn lục bảo hay chính xác là nó trị giá bao nhiêu—hay thậm chí điều gì quả thực là sự thật, bởi vì có quá nhiều những lời khai thề mâu thuẫn nhau từ rất nhiều người. Điều này đã khiến cho một người quan sát nghĩ tới một khả năng rằng hòn đá thực chất chỉ là “MacGuffin”—một vật thể mà rất nhiều người đang theo đuổi nhưng nó lại chẳng có giá trị gì hết.
Tuy vậy, năm 2011, thẩm phán đã khước từ tuyên bố sở hữu của Thomas. Sau đó người thẩm phán đã chuyển sang công việc mới, và Thomas đã yêu cầu tái xét xử—và tòa án đã đồng ý. Vị thẩm phán thứ hai đã phải nghe hết toàn bộ cái sự điên rồ này một lần nữa. Nhưng lúc này thì Ferrara, Morrison, và một người nữa đã tụ tập và thành lập một tổ chức dưới cái tên FM Holdings. Bằng cách này, một người nào đó trong số họ sẽ có thể tái sở hữu hòn lục bảo, bán nó đi, và rồi họ sẽ chia sẻ số tiền đó.
Tòa án Tối cao LA đã hoàn trả hòn lục bảo cho FM Holdings vào ngày 23 tháng Sáu, 2015.
Nhưng có lẽ chuyện hòn lục bảo này bị nguyền rủa này là có thật. Trước khi Phòng cảnh sát trưởng nhận được yêu cầu thả hòn lục bảo cho FM Holdings, Tòa án Nhân dân DC đã thông qua một lệnh cấm được gửi đến từ Bộ Tư pháp, thay mặt cho quốc gia Brazil. Brazil tuyên bố rằng hòn lục bảo Bahia đã bị xuất khẩu trái phép khỏi quốc gia này và yêu cầu nó được hoàn trả lại.
“Tôi nói thật,” John Nadolenco, luật sư chính trong vụ này của Brazil. “Lúc đầu khi tôi nhận được lá thư”—từ Brazil, yêu cầu ông giúp hòn lục bảo Bahia được hồi hương—“Tôi còn tưởng đây là một phi vụ lừa đảo. Tôi đã nghĩ có thể đây là một vụ kiểu một ông hoàng tử Nigeria muốn chúng tôi gửi vài triệu đô la tới một tài khoản ngân hàng nào đó và rồi tẩu tán toàn bộ số tiền của chúng tôi.” Nhưng cộng sự của Nadolenco đã thuyết phục ông chấp nhận vị thân chủ này. Nadolenco đã trả lời thư của người Brazil với một lời đề nghị thực sự, mặc dù đáng tiếc là ông không thể kèm theo một lời hứa bỡn cợt rằng người bạn Indiana Jones của mình sẽ có thể giúp họ thu hồi lại hòn lục bảo nếu như ông thất bại. Và ông đã giành được vụ đó.
Vì thế nên cho tới tận bây giờ, Phòng cảnh sát trưởng Quận Los Angeles vẫn đang giữ hòn lục bảo, hiện đang là bằng chứng cho một vụ án họ theo đuổi. Sự bế tắc này quả thực rất khó chịu đối với Ferrara. Ông là một người đàn ông lớn, với những ước mơ lớn lao, ngoan cố và nực cười, kẹt bên trong một cuộc đời vô vị, trống rỗng, và nhỏ bé. Ngày cuối cùng tôi còn ở Florida, chúng tôi đã gặp nhau tại Cracker Barrel. Ferrara rất thích mấy món đồ tchotchke ở đó. Và trong câu chuyện ngày hôm đó, Chrystal đã bảo với tôi rằng cô lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu Ferrara mất hòn lục bảo đó mãi mãi. “Điều đó sẽ hủy diệt ông ấy,” cô thì thầm. “Nó là cả cuộc đời của ông.”
Ferrara và tôi đã nói chuyện qua hàng giờ, từ bữa sáng dành cho người về hưu tới quá cả bữa trưa, đi qua tất cả những chi tiết dù nhỏ nhất của cả cuộc hành trình. Có lúc, ông đã đặt lọ muối và hạt tiêu ra giữa mặt bàn. Ông đẩy chúng ra xa nhau một vài centimét rồi đặt chiếc điện thoại của mình lên trên, như kiểu một cái mái nằm trên một ngôi nhà. “Đây là nền móng trong cuộc đời chúng ta—mẹ của cô, cha của cô, bạn bè, thầy cô giáo, những con người quan trọng đối với cô.” (Ý của ông là mấy lọ muối và hạt tiêu là những người đó, còn chiếc điện thoại là cuộc đời bạn.)
Ông gạt dần từng lọ bên dưới chiếc điện thoại. “Khi những con người này phản bội cô, họ sẽ ra đi, dần dần từng người một.” Chiếc điện thoại, cuộc đời của bạn, sẽ rơi xuống.
Trước khi tôi rời khỏi đó tới sân bay, chúng tôi đã giao trả chiếc bán tải về U-Haul và tới tiệm Dunkin’ Donuts để nhấm nháp thêm một chút cà phê đá. Chúng tôi ngồi ngoài, trong không khí ẩm thấp đến khó chịu, để Ferrara được hút mấy điếu thuốc Marlboro. Ông cũng kể thêm rằng, ngoài SpongeBob, ông cũng rất đồng cảm với A Series of Unfortunate Events (Một chuỗi những câu chuyện đáng tiếc) của Lemony Snicket, hay ít nhất là với tựa đề của nó. “Như tôi đã từng viết, ‘Chúng tôi đặt chân vào một thế giới bị bao trùm bởi bóng đen vây kín, màn đêm tưởng chừng như vô tận, và ánh bình minh không bao giờ ghé tới,’ ” ông nói, mặc dù không trích dẫn lại đúng hoàn toàn được lời văn của chính bản thân. Nhưng ông đã khẳng định được quan điểm của mình: Đời là bể khổ. Con người phản bội bạn và chết. Chúng ta đều cần được giải thoát.
Tôi lái xe tới sân bay, rồi lên chuyến bay về nhà. Trước khi máy bay của tôi hạ cánh, ông đã gửi cho tôi một thư thoại. “Gọi ngay cho tôi nhé!” ông la lên, giọng lạc quan chưa từng thấy. “Cô không đoán được chuyện gì đã xảy đến với tôi hôm nay đâu. Ngay khi cô vừa rời đi, ngọn gió của sự đổi thay đã thổi đến.”
Tôi gọi lại cho ông vào sáng hôm sau. Ông đã kể cho tôi nghe một câu chuyện về hòn lục bảo, mà tôi càng nghe ông kể càng thấy khó hiểu. Ông cũng nhắc tới chuyện người ta đã đến đề nghị ông tổ chức một chương trình truyền hình, một chương trình thực tế về những người đi săn kho báu. Và ông sẽ là ngôi sao của nó. Thật vui vì được nghe giọng ông.
Theo trí thức trẻ