Kế sách: Thuận tay dắt bò

Trong kinh doanh cơ hội luôn ở quanh ta. Đừng bao giờ quá mải mê cắm cúi vào một mục đích duy nhất mà bỏ qua các cơ hội khác đang ở trong tay. Người làm kinh doanh không phải lúc nào cũng chỉ chăm chắm vào một mục đích duy nhất mà phải biết phóng tầm nhìn ra xa, biết chớp các thời cơ đến với mình
1. Câu chuyện xuất xứ
Có đôi vợ chồng nhà nghèo, sinh nhai trông vào việc người chồng ngày ngày vào rừng hái củi đem về bán. Công việc vất vả, kiếm chẳng được bao nhiêu, cảnh nghèo khó thoát.
Một hôm như mọi ngày, sáng sớm tinh mơ người chồng đã vác rìu vào trong rừng kiếm củi. Khi mặt trời đã khuất bóng anh mới vác một bó củi nặng ra về. Dọc đường, anh chợt thấy một con bò thong dong gặm cỏ mà nhìn quanh chẳng thấy bóng ai chăn dắt. Vốn là người thật thà, người chồng gánh củi ra về.
Ngày hôm sau và vài ngày sau nữa, khi trở về anh vẫn thấy con bò ấy thong dong gặm cỏ. Lấy làm lạ, một chiều khi đặt bó củi xuống, người chồng nói với vợ rằng : “Quanh vùng này chẳng có ai sinh sống, vậy mà nhiều ngày nay, trên đường về tôi thấy có một con bò thong dong gặm cỏ, mà chẳng thấy bóng dáng ai chăn dắt cả ?!”
Người vợ thấy vậy bèn nói : “Ngày mai anh cứ thử dắt nó về nhà mình, nếu có ai nhận thì mình trả, biết đâu chẳng là trời thương mà ban cho vợ chồng mình ?”
Nghe lời vợ, chiều hôm sau, ngươì chồng dắt bò về. Nào ngờ, con bò ngoan ngoãn đi theo và mấy ngày sau cũng chẳng thấy ai đến hỏi han.
Đó là một con bò cái, nên chỉ ít lâu sau nó đẻ cho vợ chồng người tiều phu kia một chú bê con. Rồi ngày qua ngày, chẳng mấy chốc, vợ chồng anh tiều phu kia đã có cả một đàn bò mang lại biết bao nhiêu sữa béo và thịt ngon. Cuộc sống của họ trở nên khấm khá và có của ăn của để.
Một hôm, có người khách lỡ độ đường ghé vào xin ở trọ. Vốn là người tốt bụng, vợ chồng nhà nọ đon đả chào mời lại tiện có thịt ngon sữa béo đãi khách.
Nào ngờ, người khách ấy lại chính là viên quan chuyên lo bếp núc cho cung đình của nhà vua. Thấy chủ nhà hiếu khách lại thấy chất lượng sữa và thịt ngon lành, viên quan chuyên lo bếp núc cung đình quyết định đặt hàng cho vợ chồng người tiều phu năm xưa chuyên cung cấp thịt, sữa và các loại thực phẩm cho cung đình.
Công việc làm ăn phát đạt, đôi vợ chồng nọ trở nên giàu có và không lúc nào quên thủa hàn vi có cái lần quyết định dắt con bò về nhà, một may mắn đổi đời.
2. Cốt lõi kế sách
Thuận tay dắt bò là để chỉ việc khi người ta đang làm một việc theo chủ đích, khi thấy có những thời cơ khác đã biết tận dụng để có được những mối lợi mới bất ngờ.
3. Ý nghĩa vận dụng trong kinh doanh
Trong kinh doanh cơ hội luôn ở quanh ta. Đừng bao giờ quá mải mê cắm cúi vào một mục đích duy nhất mà bỏ qua các cơ hội khác đang ở trong tay.
Người làm kinh doanh không phải lúc nào cũng chỉ chăm chắm vào một mục đích duy nhất mà phải biết phóng tầm nhìn ra xa, biết chớp các thời cơ đến với mình.
MỘT SỐ MINH HỌA VIỆC ÁP DỤNG THÀNH CÔNG KẾ SÁCH
1. Ông vua măng ngọt Tạ Tiến
Gia đình ông Tạ Tiến, người thôn Thống Nhất, xã Song Phượng, Đan Phượng, Hà Tây trước đây chỉ làm nghề nông thuần túy nên vô cùng khó khăn. Khi Đảng và Nhà nước có chủ trương về dồn điền, đổi thửa, nắm bắt thời cơ này và được chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi, năm 1996 gia đình ông Tiến đã mạnh dạn nhận thầu những mẫu ruộng đầu tiên để thực hiện mô hình kinh tế gia đình với mong ước thoát được cái nghèo.
Hà Tây là một trong những điểm sáng về thâm canh chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng đa dạng. Ông Tiến đã chọn nấm rơm để bắt đầu sự nghiệp làm giàu cho gia đình mình. Nấm lúc đó đã được coi là loại thực sạch rất được ưa chuộng, sử dụng nhiều. Từ 900.000đ tiền vốn đầu tư, ông Tiến thu nhập được khoảng 30 triệu đồng mỗi năm chỉ nhờ nấm.
Nhưng không dừng ở đó, nhận thấy bã rơm dùng trồng, cấy nấm rất nhiều, lại đã qua các quá trình ngâm ủ xử lý nên có độ mùn cao, làm đất tơi xốp, nhiều chất dinh dưỡng, bỏ đi rất phí, ông Tiến đã mày mò trồng thử giống măng ngọt Điền Trúc. Kết quả thu được thật không thể ngờ tới. Chỉ trong năm đầu, thu lợi từ măng đã là 15 triệu, lãi hơn cả sản phẩm ban đầu là nấm rơm. Cho đến nay, gia đình ông Tiến đã phủ kín gần 5.000 khóm măng ngọt trên diện tích 36.000m2. Nhiều công ty thực phẩm đã tìm về tận vườn của ông ký hợp đồng mua măng với số lượng hàng chục tấn mỗi năm. Ông trở thành ông vua măng ngọt vùng đất Hà Tây. Không dừng ở đó, nhận thấy vẫn có thể trồng xen canh các loại cây ăn quả, ông trồng thêm hàng trăm cây bưởi, vải, nhãn, tăng thêm rất nhiều thu nhập cho gia đình. Tổng các khoản lãi thu được của ông vua măng hiện nay khoảng 130 triệu/năm, một con số mơ ước của hàng triệu nông dân Việt Nam.
Như vậy, ông Tiến đã làm giàu thành công do có tư tưởng mạnh dạn, quyết đoán, chọn thời cơ làm giàu đúng vào thời điểm Đảng và Nhà nước đưa ra chính sách đổi mới, khuyến khích nông dân làm giàu. Đặc biệt, sự linh hoạt trong việc kinh doanh: trồng nấm tiện thể trồng măng rồi lại trồng thêm các loại cây ăn quả khiến cho ông nhân được nguồn thu lợi, hơn thế ông còn được vinh danh là “ông vua măng ngọt”.
2. Chuyện Mai An Tiêm
An Tiêm là con nuôi của Vua Hùng Vương. Lớn lên An Tiêm được vua cưới vợ và tin dùng ở triều đình. Sau, vua cha nghe lời gièm pha đày gia đình An Tiêm ra đảo hoang ở vùng Nga Sơn.
Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngoài cù lao cô quạnh. Nhưng An Tiêm thì bình thản nói: “Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo”. Thế là vợ chồng An Tiêm ra sức khai khẩn, trồng trọt.
Một ngày kia, có một con chim lạ từ phương tây bay đến đậu trên một gò cát. Chim nhả mấy hạt gì xuống đất. Ðược ít lâu, thì hột nãy mầm, mọc dây lá lan rộng trên mặt đất. Cây nở hoa, kết thành trái to. An Tiêm bảo vợ: “Giống cây này tự nhiên không trồng mà có tức là vật của Trời nuôi ta đó”. Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngon ngọt, mát dịu. An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đó cây mọc lan ra rất nhiều. 
Một ngày kia, có một chiếc tàu bị bão dạt vào cù lao. An Tiêm bèn đem qua đó đi đổi lấy vật dụng và thực phẩm. Rồi từ đó, tiếng đồn đi xa là có một giống quả rất ngon ở trên đảo. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ cho gia đình An Tiêm. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, sung túc.
Ít lâu sau, Hùng Vương nhận ra nỗi oan của người con nuôi, thương nhớ vô cùng, mới sai người ra cù lao ngoài biển Nga Sơn dò xem gia đình An Tiêm ra làm sao, sống hay chết. Sứ thần về kể lại cảnh sống sung túc của vợ chồng An Tiêm. Nhà vua mừng lắm, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình. 
An Tiêm đem về dâng cho Vua giống quả mà mình may mắn có được. Rồi phân phát hột dưa cho dân chúng trồng ở những chổ đất cát, làm giàu thêm cho xứ Việt một thứ trái cây danh tiếng. Hòn đảo mà An Tiêm ở được gọi là Châu An Tiêm.
Con chim nhỏ thả hạt trên bãi đất là việc nếu không để ý đến thì cũng không đem lại điều gì. Nhưng với Mai An Tiêm, đó là một dịp may trời cho. Và An Tiêm đã tận dụng cơ hội này để thoát ra khỏi tình thế khó khăn mình đang mắc phải.
3. Thuốc tẩy trắng : Chuyện về một họa sĩ nghèo 
Ở Pháp có một họa sĩ nghèo tên là ChiMai. Một hôm trong lúc ông đang tập trung tinh thần bên giá vẽ thì bà vợ ông đang giặt quần áo bên bể nước.
Vợ ông giặt quần áo xong, xếp đồ đạc sang một bên mệt mỏi vươn vai. Đúng lúc ấy ChiMai vô tình vảy bút một cái. Ngay lập tức chất mực màu xanh da trời rảy đầy lên chiếc áo trắng vợ ông mới giặt xong. Dù bà vợ ông có giặt kỹ đến mấy cũng không tẩy hết màu xanh da trời của mực vẽ dây trên chiếc áo trắng ấy.
Giặt mãi không sạch bà đành phơi áo dưới ánh nắng mặt trời. Khi chiếc áo đã khô bà kinh ngạc nhận thấy chiếc áo không hề sót lại một chút vệt màu xanh nào, trái lại nó còn sáng đẹp hơn trước rất nhiều.
Ngày hôm sau ông thử lại với những chiếc quần áo đã giặt sạch. Thật kỳ lạ là những chiếc áo đó sáng đẹp rất nhiều. Ông thử nghiệm lại nhiều lần và kết quả đều như nhau.
Một ý tưởng kinh doanh nảy ra trong đầu ông họa sỹ. Ông gọi loại màu vẽ đó là « loại thuốc có thể làm trắng những vật cần giặt tẩy » và bán nó với dòng chữ «cho thêm một lượng nhỏ dung dịch này vào hộp xà phòng» sau đó đem ra tiêu thụ trên thị trường. 
Thế là từ đó Chimai từ biệt cuộc sống khốn khó của mình để bước chân vào một cuộc sống giàu có.
4. Josef H. Boquoi – Từ người bán kem rong trở thành tỉ phú 
Josef H. Boquoi sinh ra trong một gia đình kinh doanh nhỏ ở một làng thuộc vùng hạ lưu sông Ranh. Khi mới 24 tuổi, ông thay cha làm chủ cửa hàng cà phê nhỏ. Để cải thiện tình hình kinh doanh, ông đã sắm một chiếc xe ôtô cũ kỹ tự đi rao bán ở những vùng xa xôi, kể cả những vùng hẻo lánh, vùng sát biên giới. 
Sau rất nhiều lần thấy có người hỏi mua kem, không chỉ là trẻ nhỏ mà cả các bà nội trợ, thế là ý tưởng bán kem đã hình thành. Lúc đầu tiền thu bán kem chỉ là phụ so với bán cà phê. Nhưng chẳng bao lâu, doanh số bán kem đã lớn hơn rất nhiều so với cà phê. Josef H. Boquoi trở thành người chuyên bán kem lúc nào không hay. 
Nhờ bán kem, Josef H. Boquoi đã trở thành một người bạn thân thiết của nhiều trẻ nhỏ và các bà nội trợ. Đa số họ là các gia đình nông dân còn khá nghèo. Nhiều người không có tiền mặt để mua kem đã đề nghị gán đổi các thứ rau, củ, quả và cả trứng, xúc xích. Để bán được kem và bản thân cũng cần các thứ thực phẩm thiết yếu, Josef H. Boquoi đã nhận lời đổi kem lấy rau quả. 
Với cách bán hàng mới, Josef bán được nhiều kem hơn nhưng chẳng mấy chốc cả căn hầm lạnh rộng lớn của gia đình ông đã chật cứng bởi đủ thứ rau củ quả rất ngon nhưng ông không biết ăn mấy năm mới hết. Josef H. Boquoi tự hỏi rằng tại sao không đem các rau quả này lên thành phố bán và sẽ lại đến từng nhà để bán như là về quê bán kem. Đây chính là một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của Josef H. Boquoi. Sau này nhìn nhận lại, nhiều người đã coi đây là một ý tưởng kinh doanh vô cùng độc đáo. 
Josef H. Boquoi đã thành công một cách rất đáng khâm phục. Cách đây hơn chục năm, Bofrost mới chỉ có vài chục nghìn khách hàng với doanh số tương đương 500.000 Euro. Liên tục cả chục năm nay, công ty Bofrost tăng trưởng với tốc độ hai chữ số, kể cả trong những thời kỳ kinh tế suy giảm. Riêng trong năm 2002, doanh số của Bofrost lên tới trên 1,1 tỉ Euro
Bí quyết thành công của Josef H. Boquoi ở chỗ ông đã biết nắm bắt những cơ hội có được trong khi đang theo đuổi các cơ hội khác.
5. Vì sao mỳ ăn liền ra đời 
Hơn 30 năm trước, có một người Nhật Bản tên là Asiko sống ở thành phố Osaka. Ông là chủ một công ty nhỏ chuyên gia công thực phẩm. Hàng ngày ông phải đi tàu điện đến thành phố làm việc. Ngồi trên tàu ông thường thấy dòng người xếp hàng dài để được ăn một bát mỳ nóng hổi vừa mới nấu. Lúc đầu Asiko không để ý đến cảnh tượng bình thường đó nhưng lâu dần thành quen, ông luôn tự hỏi “Nếu mọi người thích ăn mỳ nóng như vậy , tại sao mình không thử sản xuất một loại mỳ có thể đổ nước sôi vào là ăn được ngay?”
Trăn trở với suy nghĩ về một loại mỳ vừa ăn ngon vừa ít tốn thời gian, ông mua một chiếc máy ép mỳ và tiến hành thử nghiệm về một loại mỳ mới. Sau không biết bao nhiêu lần thất bại ông không hề nản chí mà rút ra được vô khối kinh nghiệm cho những lần thử nghiệm sau. Trải qua 3 năm gian khổ nỗ lực, cuối cùng Asiko cũng đã thành công. Loại mỳ mà ông nghiên cứu ra có một hương vị đậm đà chỉ cần đổ nước sôi vào là có thể ăn được ngay. Nhờ có loại mỳ này, nhu cầu ăn uống con người có thể được phục vụ nhanh chóng và tiện lợi. Mỳ ăn liền nhanh chóng được mọi người biết đến. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, sản phẩm này ngày càng được nâng cao.
Sự tiện lợi của mì ăn liền đã gây được sự chú ý của khách hàng. Trong vòng 8 tháng kể từ ngày ra mắt đã tiêu thụ được 1.3 triệu gói mì. Asiko từ một giám đốc công ty nhỏ đã nhảy vọt lên trở thành người giàu có tầm cỡ.
Asiko đã nắm được cơ hội từ trong những hoạt động vẫn diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của con người, từ đó biến nó thành lợi thế kinh doanh của mình. Câu chuyện này cũng thể hiện một điều , con “bò” có thể xuất hiện bất ngờ nên cần có người giỏi nhận biết, có năng lực ứng phó nhanh chóng mới ngắm chuẩn mà dắt được nó đi.
6. Câu chuyện về những chiếc bánh quy đầu tiên
Một ngày năm 1831 một chiếc thuyền lớn với bốn cột buồm ra khơi. Khi đi ngang qua vịnh Biskhai của Pháp, thuyền gặp một trận cuồng phong. Một con sóng lớn đã hất đổ thuyền của họ, nước biển tràn vào, thuyền mau chóng bị nhấn chìm.
Thủy thủ sống sót trên thuyền bơi dạt vào một đảo hoang. Trên hòn đảo ấy họ không tìm được một thứ gì để ăn được. Một người mới nhớ rằng trên tàu còn có những hòm bột mỳ, đường cát và bơ. Thế là những người còn khỏe mạnh lập tức lặn xuống nước vớt chúng lên. Ngờ đâu những chiếc thùng ấy đã ngấm nước biển, vón cục cả lại. Hơn nữa trên đảo lại không có đồ đánh lửa. Lúc đó một viên thuyền trưởng thông minh đã nghĩ ra một kế. Ông trộn đều bột mỳ, bơ và đường cát đã ngấm nước biểm vón cục kia lên tạo thành một thứ chất hỗn hợp sau đó dùng tay khéo léo nặn thành những chiếc bánh hình tròn dẹt và dán chúng lên những viên đá đã được mặt trời nung nóng rẫy.
Đợi những chiếc bánh đấy khô đi họ liền cậy ra nếm thử quả nhiên thấy hương vị ngon miệng khác thường. Nhờ loại lương thực này giúp họ sống qua ngày cho đến khi một con tàu tình cờ đi qua cứu họ thoát nạn.
Để kỷ niệm những ngày ở đảo Biskhai, họ đặt tên loại bánh này là «bisquis »
Bởi hương vị của loại bánh này rất độc đáo, lại có xuất xứ ly kỳ, sau này khi trở về đất liền, một thủy thủ trong đoàn nảy ra ý định kiếm tiền từ những chiếc bánh như vậy. Anh ta thuê lại nhà xưởng của một nhà máy tại Pari, tuyển dụng công nhân, mua bột mỳ, bơ và đường cát rồi mời những thủy thủ thoát nạn kia cùng tham gia sản xuất với mình. Thế là loại bánh này mau chóng lan rộng trên toàn thế giới.

Theo MFO News